Khi nào công dân bị tạm hoãn xuất cảnh?

Hải Hà

(Dân trí) - Không chỉ người phạm tội, người bị tố giác, những người vi phạm nghĩa vụ về nộp thuế hay phải thi hành Bản án có hiệu lực pháp luật cũng có thể bị áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh.

Như Dân trí thông tin, ông Nguyễn Danh Thắng (Chủ tịch Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển phim truyện Việt Nam) đã bị Cục Thuế TP Hà Nội đề nghị tạm hoãn xuất cảnh do công ty đang nợ thuế. Trước đó, đơn vị đã bị cơ quan quản lý thuế áp dụng biện pháp cưỡng chế bằng cách ngừng sử dụng hóa đơn.

Tương tự, Cục Thuế tỉnh Quảng Ngãi cũng đã đề nghị tạm hoãn xuất cảnh đối với chủ 47 doanh nghiệp chây ì, nợ thuế kéo dài trên địa bàn với tổng số tiền nợ lên tới hơn 482 tỷ đồng, bao gồm nhiều cái tên có tiếng như Công ty Cổ phần Đầu tư 577, Công ty Cổ phần Lilama 45.3 hay Công ty Cổ phần Licogi.

Từ những trường hợp trên, nhiều người đặt câu hỏi về việc pháp luật quy định ra sao về tạm hoãn xuất cảnh? Và những trường hợp nào có thể bị tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật?

Trả lời

Theo Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam 2019, xuất cảnh là việc công dân Việt Nam ra khỏi lãnh thổ Việt Nam qua cửa khẩu Việt Nam còn tạm hoãn xuất cảnh là việc dừng, không được xuất cảnh có thời hạn đối với công dân Việt Nam.

Về việc tạm hoãn xuất cảnh, Điều 36 Luật này quy định về các trường hợp công dân bị hoãn xuất cảnh bao gồm:

Thứ nhất, bị can, bị cáo; người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh, có căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ;

Thứ hai, người được hoãn chấp hành án phạt tù, được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, được tha tù trước thời hạn có điều kiện trong thời gian thử thách, được hưởng án treo trong thời gian thử thách, người chấp hành án phạt cải tạo không giam giữ trong thời gian chấp hành án;

Thứ ba, người có nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, nếu có căn cứ cho thấy việc giải quyết vụ án có liên quan đến nghĩa vụ của họ đối với Nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân và việc xuất cảnh ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, quyền, lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để bảo đảm việc thi hành án;

Thứ tư, người phải thi hành án dân sự, người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đang có nghĩa vụ thi hành bản án, quyết định được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự nếu có căn cứ cho thấy việc xuất cảnh của họ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để bảo đảm việc thi hành án;

Thứ năm, người nộp thuế, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đang bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, người Việt Nam xuất cảnh để định cư ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài trước khi xuất cảnh chưa hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.

Thứ sáu, người đang bị cưỡng chế, người đại diện cho tổ chức đang bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.

Thứ bảy, người bị thanh tra, kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó vi phạm đặc biệt nghiêm trọng và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn.

Thứ tám, người đang bị dịch bệnh nguy hiểm lây lan, truyền nhiễm và xét thấy cần ngăn chặn ngay, không để dịch bệnh lây lan, truyền nhiễm ra cộng đồng, trừ trường hợp được phía nước ngoài cho phép nhập cảnh.

Thứ chín, người mà cơ quan chức năng có căn cứ cho rằng việc xuất cảnh của họ ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh.

Về thời hạn áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh, khoản 1 Điều 38 Luật này quy định đối với trường hợp thứ nhất, thời hạn tạm hoãn thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với các trường hợp từ thứ hai tới thứ sáu, thời hạn tạm hoãn xuất cảnh kết thúc khi người vi phạm, người có nghĩa vụ chấp hành xong bản án hoặc quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật này;

Đối với trường hợp thứ bảy, thời hạn không quá một năm, có thể gia hạn nhưng mỗi lần không có một năm còn với trường hợp thứ tám, thời hạn và thời gian gia hạn mỗi lần áp dụng là 6 tháng.

Với trường hợp thứ chín, thời hạn tạm hoãn được tính đến khi không còn ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an.

Căn cứ các quy định trên, có thể thấy không chỉ trường hợp người phạm tội, người bị tố giác mới bị áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh mà những người vi phạm nghĩa vụ về nộp thuế hay có nghĩa vụ thi hành án dân sự cũng có thể bị áp dụng biện pháp này. Đối với trường hợp của Chủ tịch Hãng phim truyện Việt Nam hay 47 doanh nhân tại Quảng Ngãi, việc tạm hoãn xuất cảnh sẽ chấm dứt khi họ hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước.

Hoàng Diệu