Có dấu hiệu này trên ngực, đi khám ung thư vú ngay

Hà An

(Dân trí) - Thi thoảng thấy đau nhói theo kiểu kim châm ở vùng vú, chảy dịch đầu vú, sờ thấy khối u… là những dấu hiệu cảnh báo bạn nên đi khám ung thư vú.

Ung thư vú là tình trạng bệnh lý do tế bào tuyến vú phát triển không kiểm soát được, tạo ra các khối u ác tính, có khả năng phân chia mạnh, xâm lấn xung quanh và di căn xa.

Theo bác sĩ Nguyễn Nhật Linh, khoa Nội 1, Bệnh viện Ung bướu Hà Nội, một số yếu tố được biết đến như là yếu tố nguy cơ của ung thư vú bao gồm tuổi. Nguy cơ ung thư vú tăng lên ở các phụ nữ nhiều tuổi. Việc tầm soát ung thư vú nên được tiến hành ở độ tuổi từ 40 trở lên.

Nguy cơ mắc ung thư vú ở nữ giới cao gấp 100 lần nam giới. Phụ nữ có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn khi gia đình có người thân mắc ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng, có người thân mắc ung thư vú dưới 50 tuổi hoặc có đột biến gen BRCA1, BRCA2.

Các yếu tố liên quan đến tăng số lượng kỳ kinh như mang thai sau 30 tuổi, có kinh sớm trước 13 tuổi, mãn kinh muộn sau 50 tuổi hoặc không cho con bú,... đều làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Ngoài ra, còn phải kể đến một số yếu tố khác như: thừa cân, béo phì, sử dụng hormon ngoại sinh, người có tiền sử mắc các bệnh vú lành tính,...

Có dấu hiệu này trên ngực, đi khám ung thư vú ngay - 1

Triệu chứng của ung thư vú

- Đau vùng vú: cảm giác đau của người bệnh có thể là đau dấm dứt không thường xuyên, thi thoảng đau nhói theo kiểu kim châm.

- Chảy dịch đầu vú: một số bệnh nhân có biểu hiện chảy dịch đầu núm vú, có thể chảy dịch lẫn máu.

- Người bệnh cũng có thể tự sờ thấy khối u vùng vú hoặc hạch vùng hố nách.

- Đối với các khối u vú giai đoạn muộn có thể thấy các triệu chứng do khối u vú xâm lấn gây lở loét, hoại tử ra ngoài da, gây chảy dịch, mùi hôi thối.

- Triệu chứng của các cơ quan đã di căn: nhiều người bệnh đến khám với các triệu chứng của bệnh giai đoạn muộn, đã di căn đến các cơ quan khác trong cơ thể như: di căn xương gây đau xương, di căn não gây đau đầu, buồn nôn, chóng mặt,...

Ngoài ra, người bệnh có thể có các triệu chứng toàn thân như mệt mỏi, chán ăn, ăn kém, gầy sút cân, đôi khi biểu hiện sốt.

Có dấu hiệu này trên ngực, đi khám ung thư vú ngay - 2

Chẩn đoán ung thư vú

Theo bác sĩ Linh, chẩn đoán ung thư vú cần dựa vào 3 phương pháp kinh điển có tính chất định hướng giúp chẩn đoán xác định bệnh ung thư vú, bao gồm:

- Lâm sàng: các triệu chứng của bệnh.

- Xét nghiệm tế bào học: đánh giá hình thái tế bào tuyến vú

- Chụp X-quang tuyến vú (mammography): phát hiện hình ảnh nghi ngờ tổn thương ác tính của vú trên phim X-quang.

Nếu một trong 3 phương pháp này nghi ngờ phải thực hiện sinh thiết tổn thương ở vú. Kết quả mô bệnh học sau sinh thiết là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác định ung thư vú.

Cụ thể, xét nghiệm hóa mô miễn dịch giúp đánh giá đúng tình trạng thụ thể nội tiết, yếu tố phát triển biểu mô Her2, xác định đúng thể bệnh từ đó đưa ra phương pháp điều trị phù hợp cũng như tiên lượng bệnh. Các xét nghiệm đánh giá giai đoạn bệnh gồm: X-quang ngực, siêu âm tuyến vú, cộng hưởng từ tuyến vú, siêu âm ổ bụng, cắt lớp vi tính ngực, cắt lớp vi tính bụng, xạ hình xương.

Chất chỉ điểm khối u CA 153 có giá trị trong theo dõi. Bên cạnh đó, người bệnh cũng được làm xét nghiệm máu đánh giá chức năng các cơ quan (công thức máu, chức năng gan, thận,...). 

Những ai nên sàng lọc sớm ung thư vú

Thông thường, sàng lọc ung thư vú dựa trên nguy cơ mắc ung thư vú của phụ nữ. Người ta có thể chia đối tượng sàng lọc ung thư vú thành hai nhóm nguy cơ là nhóm nguy cơ trung bình và nhóm tăng nguy cơ.

Nhóm tăng nguy cơ (nguy cơ tích lũy đến tuổi 75 là 15-20%):

- Tiền sử gia đình (họ hàng bậc 1) có người mắc ung thư vú hoặc/và ung thư buồng trứng, vòi trứng, phúc mạc.

- Có mẹ, chị em gái, hoặc con gái đã được xác định mang đột biến gen BRCA1/2

- Tiền sử sinh thiết vú chẩn đoán tăng sinh không điển hình

- Tiền sử mắc ung thư biểu mô thể tiểu thùy tại chỗ (LCIS)

- Tiền sử xạ thành ngực điều trị ung thư trước tuổi 30

Ngoài ra, những phụ nữ đã được xác định có mang gen BRCA đột biến sẽ được xếp vào nhóm có yếu tố di truyền, cần có một chương trình sàng lọc, dự phòng và tư vấn đặc biệt.

Nhóm nguy cơ trung bình bao gồm những chị em phụ nữ trên 40 tuổi, không có bất kỳ dấu hiệu nào của nhóm yếu tố tăng nguy cơ.